Rác thải nhựa trong sản xuất nông nghiệp Hà Tĩnh: Thực trạng và giải pháp
Trong quá trình phát triển nông nghiệp hiện đại, việc sử dụng vật tư đầu vào như màng phủ nông nghiệp, chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật, phân bón... đã góp phần tăng năng suất, chất lượng cây trồng. Tuy nhiên, đi kèm với đó là lượng rác thải nhựa phát sinh ngày càng lớn trong sản xuất nông nghiệp, trở thành vấn đề đáng báo động đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng. Tại Hà Tĩnh, vấn đề này đang đặt ra yêu cầu cấp bách cần được nhận diện, quản lý và xử lý từ gốc.
Thực trạng rác thải nhựa trong sản xuất nông nghiệp Hà Tĩnh
Việc sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một lần trong canh tác ngày càng phổ biến, đặc biệt là màng phủ nông nghiệp, chai lọ thuốc bảo vệ thực vật, túi nilon đựng giống, phân bón, bao thức ăn chăn nuôi và vật tư thủy sản.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Môi trường nông nghiệp: tổng phát thải nhựa của cây lúa trung bình là 8,24 kg/ha (gồm bao bì thuốc BVTV, màng phủ che mạ, bao bì phân bón, bao bì đựng giống,…). Như vậy hệ số phát thải của cây lúa theo diện tích là 8,24 kg/ha tương đương với 1 tấn lúa phát thải 1,034 kg nhựa. Với cây ngô lượng nhựa phát sinh rác thải nhựa từ quá trình canh tác cây ngô nhiều nhất là các loại bao dứa trong quá trình thu hoạch với 72% lượng nhựa phát sinh trong cả vụ ngô. Lượng nhựa phát sinh từ các bao bì phân bón chiếm 24%, còn lại là lượng nhựa phát sinh từ bao bì thuốc BVTV. Lượng nhựa phát sinh trong trồng ngô trung bình là 11,06 kg/ha. Đối với cây ăn quả: cam, bưởi 49 kg/ha/năm;… Trong chăn nuôi lợn: lượng nhựa phát thải trung bình là 0,065 kg/con chủ yếu là bao bì thức ăn, thuốc thú y và các loại men vi sinh. Như vậy, với diện tích và cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại tỉnh Hà Tĩnh như hiện nay thì lượng chất thải nhựa phát sinh ước tính mỗi năm từ sản xuất lúa khoảng 988,8 tấn, ngô khoảng 78,7 tấn; cam, bưởi khoảng 576,8 tấn, chăn nuôi lợn khoảng 26,1 tấn,…
Tuy nhiên, phần lớn lượng rác thải nhựa sau sử dụng không được thu gom, xử lý đúng quy định, mà bị vứt bỏ bừa bãi trên đồng ruộng, ao hồ, kênh mương, hoặc đốt tự phát tại chỗ, gây ô nhiễm đất, nước và không khí.
Nguyên nhân của thực trạng trên là do:
- Nhận thức của người dân về tác hại của rác thải nhựa còn hạn chế.
- Thiếu cơ sở hạ tầng, điểm thu gom, hệ thống phân loại và tái chế.
- Cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến khích sử dụng vật liệu thân thiện chưa rõ nét.
- Việc quản lý, giám sát còn phân tán, thiếu tính thống nhất giữa các cấp ngành.
Tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe
Rác thải nhựa trong nông nghiệp không chỉ làm suy giảm chất lượng đất trồng, gây cản trở thoát nước, mà còn dẫn đến tích tụ vi nhựa trong đất, ảnh hưởng lâu dài đến hệ sinh thái và sức khỏe con người. Các loại bao bì nhựa có thể tồn tại hàng trăm năm trong môi trường. Khi bị đốt ngoài trời, chúng giải phóng các chất độc như dioxin, furan... có thể gây ung thư và các bệnh lý nghiêm trọng khác.
Bên cạnh đó, việc tồn dư rác thải nhựa còn làm giảm uy tín sản phẩm nông nghiệp Hà Tĩnh trong chuỗi giá trị, đặc biệt là các sản phẩm hướng đến xuất khẩu hoặc đạt chuẩn VietGAP, hữu cơ.
Giải pháp xử lý từ “đầu nguồn”
Trước tình trạng trên, việc xử lý rác thải nhựa trong sản xuất nông nghiệp từ gốc là yêu cầu tất yếu và cần triển khai đồng bộ. Một số nhóm giải pháp trọng tâm bao gồm:
1. Tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức
- Tổ chức các chiến dịch truyền thông, tập huấn cho nông dân, hợp tác xã về tác hại của rác thải nhựa và cách thức thu gom, phân loại.
- Lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường, giảm thiểu nhựa vào các chương trình khuyến nông, xây dựng nông thôn mới.
2. Xây dựng hệ thống thu gom và tái chế
- Quy hoạch các điểm thu gom bao bì, vật tư nhựa nông nghiệp sau sử dụng tại các xã, thôn.
- Hỗ trợ thành lập mạng lưới hợp tác xã môi trường nông thôn tham gia thu gom – phân loại.
- Khuyến khích doanh nghiệp tái chế nhựa đầu tư tại địa phương.
3. Khuyến khích vật liệu thay thế và mô hình tuần hoàn
- Hỗ trợ nông dân tiếp cận và sử dụng các vật tư sinh học phân hủy được như màng phủ sinh học, bao gói hữu cơ...
- Nhân rộng mô hình nông nghiệp tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm (rơm rạ, lá cây, vỏ tôm...) thay thế vật liệu nhựa.
- Kết nối doanh nghiệp, nhà khoa học và nông dân trong nghiên cứu, ứng dụng giải pháp công nghệ xanh.
4. Tăng cường cơ chế, chính sách hỗ trợ
- Rà soát, bổ sung quy định hạn chế sử dụng vật tư nhựa khó phân hủy trong nông nghiệp.
- Có chính sách hỗ trợ tài chính, thuế, tín dụng ưu đãi cho tổ chức, cá nhân triển khai mô hình xử lý nhựa hiệu quả.
- Đưa tiêu chí xử lý rác thải nhựa vào đánh giá nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu.
Rác thải nhựa trong sản xuất nông nghiệp là một thách thức lớn nhưng không thể né tránh nếu Hà Tĩnh muốn phát triển nền nông nghiệp bền vững, xanh và hiện đại. Việc xử lý triệt để, từ đầu nguồn – từ nhận thức đến hành vi, từ vật tư đến hạ tầng – là con đường tất yếu. Cần có sự chung tay của các cấp chính quyền, ngành chuyên môn, doanh nghiệp, hợp tác xã và đặc biệt là mỗi người nông dân – chủ thể trung tâm của quá trình chuyển đổi xanh.
Nguyễn Giang - KHTC